Flip book element
Quảng Nam những vấn đề lịch sử – Bìa mềm
₫118,000 ₫83,000
hêm một góc nhìn để tìm hiểu về mảnh đất và con người xứ Quảng…
Trong lời tựa tập sách Quảng Nam – những vấn đề lịch sử (do Trung tâm nghiên cứu quốc học và Nhà xuất bản Văn học ấn hành vào tháng 5.2013), nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy nêu rõ: “Đất Quảng Nam, kể chiều dài lịch sử đã năm trăm năm thành lập có dư… Với lịch sử ấy, địa lý ấy, đất và con người không gian nơi đây không thể không hàm tàng bao nhiêu vấn đề thuộc khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn”. Chính vì vậy, tác giả muốn “trình” Quảng Nam những vấn đề lịch sử nhằm góp phần nhỏ trên bước đường tìm về dĩ vãng lịch sử một miền quê hương, mà theo ông: “cũng là kết quả học hỏi của kẻ hậu học giữa thời buổi nền học cũ đã tàn từ lâu, còn học mới thì… trước bao luồng gió xoáy của thời đại đang vừa trì thủ vừa khai phóng để tự tạo một bản sắc riêng”.
Ở phần khảo về địa danh trên đất Quảng Nam, tác giả chia làm 6 phần: Khảo về danh xưng Đà Nẵng, danh xưng Hội An xưa, Sông nước mùa thu, khảo về danh xưng “Bà Nà”, Dinh Chiêm hay Dinh Chàm, nghĩ về tên sông Thu Bồn.
Trong đó, về tên gọi “Hàn – Đà Nẵng”, tác giả dẫn giải nhiều tư liệu về danh xưng “Thủ Hàn”, về “Tourane” đến “Hàn – Đà Nẵng”. Ông cho rằng, mảnh “đất Hàn – Đà Nẵng” chủ yếu được thành lập do sự trầm tích ở môi trường cửa sông và ven biển. Theo thời gian tính bằng ngàn năm, biển rút lui dần về đông, bày ra các thủy đạo lớn nhỏ đổ xuôi theo triền dốc bồi tích, thường xuyên chuyển đổi dòng chảy ở hạ lưu với hiện tượng mở dòng mới, trám dòng cũ. Cho đến một lúc chỉ còn ba thủy đạo lớn là Thanh Khê, Thạc Gián và Hàn Giang mở cửa tiếp giáp với biển.
Về danh xưng Hội An, theo tác giả, các đô thị cảng sông có lịch sử 400 năm ấy đã mang nhiều danh xưng khác nhau trong sử sách, khiến người đời sau lẫn lộn không biết phải tin vào thuyết nào. Cụ thể, qua trình tự thời gian có các thuyết Hoa phố, Hội phố, Hải phố, Hoài phố, mà người Quảng Nam xứ Đàng Trong ưa gọn khô nhát gừng, chỉ nói: “PHỐ”, với ý nghĩa chân xác nhất là nơi tàng trữ bán buôn và trao đổi hàng hóa.
Nhắc về tên gọi sông Thu Bồn, tác giả viết: “Địa lý học lịch sử cho ta biết rằng tên sông Thu Bồn, sớm nhất, đã có từ trước 1470 là năm Lê Thánh Tông neo thuyền nghỉ giải lao tại bến sông Thu Bồn. Bài thơ Thu Bồn dạ bạc đánh dấu sự dừng chân của ông vua giỏi nhất triều Lê, đồng thời xác định niên đại in ra bằng dấu tích văn tự, danh xưng con sông lớn nhất của đất nước Quảng Nam. Tuy nhiên, tác giả cũng nêu ra sự kiện: “Từ sau thế kỷ IX là năm ra đời danh tác Tỳ Bà Hành (816) của Lạc Thiên, đến nửa đầu thế kỷ XV là năm Lê Thánh Tông dừng chân tại bến Thu Bồn (1470), sông ấy gọi tên vào niên đại nào thật khó xác định, nhưng danh xưng “Thu Bồn” hẳn phải có sau “Bồn giang” của Bạch Cư Dị bị lưu đày ở xứ Giang Tây”, đồng thời lưu ý: “Các nhà yêu nước cực đoan cần bình tâm trước một sự kiện địa danh học – lịch sử. Nghiên cứu khoa học có những tư biện của nó mà tình tự dân tộc không thể lấn át”.
Ở phần khảo về nhân vật, sự kiện Quảng Nam, tác giả dẫn dắt người đọc gặp lại nhiều nhân vật, sự kiện rất đặc trưng và thú vị như: Những chuyến ngự du Ngũ Hành Sơn của vua Minh Mạng, Quan lại Bắc hà điếu Hoàng Diệu, bài ký “Khán Hoa Đình”, Trần Quý Cáp: tiên khởi tuẫn quốc vì công cuộc duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX, Coi tàu bay tại Huế và Đà Nẵng năm 1913, Nói thêm về kỳ nữ họ Tống, Văn bia chùa Long Thủ…
Một trong những sự kiện đáng nhớ như “Coi tàu bay tại Huế và Đà Nẵng năm 1913” được tác giả dẫn tài liệu rành rọt: “Chiều ngày thứ Hai 4.8.1913, dưới sự tổ chức chu đáo của Ủy ban Hỗn hợp Pháp Nam, khoảng 30.000 khán giả tề tựu quanh các bờ thành và lũy đất trước kỳ đài của kinh thành. Vua Duy Tân, Tôn nhân phủ, hoàng thân quốc thích cùng các triều thần ngự trên khán đài danh dự dựng trên bờ tường tầng thứ nhất của các kỳ đài. Các bà thái hậu, hoàng phi, công chúa ngồi dưới mái lầu Ngọ môn ngó ra. Về phía Pháp, người ta thấy có Khâm sứ Charles, các phán sự tòa Khâm, các sĩ quan thuộc địa… Đúng 17 giờ 30 phút, chín phát thần công của Nam triều chào mừng khai diễn cuộc bay, hòa với tiếng nhạc trỗi “La Marseille” của quốc ca Pháp do ban nhạc hơi thuộc liên đội 9 bộ binh thuộc địa cử hành”.
Trong bài viết “Bức ảnh đầu tiên chụp ở Việt Nam”, qua những phân tích đối chiếu, tác giả nhận định, bức “Ảnh chụp từ Đồn xưa Đàng Trong Non Nay” (trong quyển III sách Nhật ký một chuyến du hành đến Trung Hoa… của Jules Itier) là bức ảnh đầu tiên chụp ở Việt Nam với kỹ thuật non trẻ của phim tấm Daguerréotype. Chính là khung cảnh tại vị trí Đồn Bắc – một đồn phòng ngự cửa biển tại Đà Nẵng.
Phần “Mấy vấn đề Champa trên đất Quảng Nam” gồm những bài viết: Văn bia An Thái và Phật giáo Champa, Amaravâti, Văn khắc Chàm trên vết đá Thạch Bích, Vị trí địa lý Indrapura… Trong đó, nhiều bài viết được Nguyễn Sinh Duy chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp, chứ không tổng hợp tài liệu. Đặc biệt, ở phần phụ đính bao gồm hình ảnh và các bản sao chụp hồ sơ, công điện, nghị định… bằng nguyên bản tiếng Pháp. Trong đó, có Nghị định của Khâm sứ Trung kỳ Luce về việc nhượng đất làng Nghi An (Hòa Vang) cho Gravelle, Công điện phủ Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam kỳ về việc lưu đày hai vua Thành Thái và Duy Tân đi Réunion năm 1916, Hồ sơ vụ kiện đất của làng Nghi An với chủ Nhà băng Đông Dương Đà Nẵng là Gravelle…
Kinh Điển Phật Giáo
₫120,000 ₫96,000
Kinh Nghiệm Tuệ Quán – Toại Khanh (Bản In Năm 2024)
₫350,000
Nội dung lời Phật luôn cô đọng nên ngắn gọn, vì Thế Tôn biết rõ căn cơ của từng người đối diện, một lời nói thẳng vào yếu điểm cần thiết. Nay ta tham cứu kinh văn chép lại lời Ngài hầu như phải chấp nhận lối nói không dành cho mình bây giờ. Phàm tâm đa đoan, lại thiếu bóng hiền thánh, chúng ta nay phải học lời Phật qua cách diễn dịch của người hiện đại với thứ ngôn ngữ thời thượng của phàm phu. Thầy hiểu đến đâu thì dạy trò đến đó, cộng thêm kinh nghiệm cá nhân mà hầu như mỗi thầy đều có chỗ sở đắc riêng tư.
Ta học Phật và tu Phật theo cách an toàn nhất có lẽ chỉ nên xem các bậc sư phụ đơn giản là những chỗ tham khảo, đọc hay nghe với sự chọn lọc cẩn thận nhất, như có thể.
Nội dung cuốn sách này chính là một nguồn tham khảo kiểu vậy về con đường Tuệ Quán, chặng cuối của hành trình Tam Học, ngõ dẫn vào giải thoát.
Hai năm trước, cuốn sách này được in thành hai tập. Nay tái bản, đọc lại và hiệu đính nội dung lần nữa, với những điều chỉnh cần thiết, chúng tôi quyết định gom cả hai tập để in chung thành một cuốn cho gọn, dù có dày hơn một tí.
Người đã vững vàng hẳn nhiên chẳng cần đến sách nữa, chỉ lần giở từng trang nội tâm và quên hết những gì là ngữ ngôn, kỹ thuật… Rồi cứ vậy mà hồn nhiên như trẻ con bước vào đất Phật, nơi ba đời hiền thánh đã đi qua.
Tập San Bảo Tích – số 01
₫220,000
Tập san do Đỗ Quốc Bảo chủ biên với chủ trương “mở cánh cửa dẫn tới tri thức thông qua ngôn ngữ để người đọc tự bước đi chứ không mang tri thức đến người đọc bằng cách “bình dân hoá” tri thức”.
Tập san Bảo Tích số 1 ra mắt, dù tập đầu dưới danh nghĩa “Lưu hành nội bộ” (nhưng vẫn ấn loát chuyên nghiệp) sẽ là một sự kiện quan trọng đối với học giới trong nước. Và, với phẩm chất hiện có, Tập san Bảo Tích nếu duy trì đủ lâu, nhất định sẽ có những tác động rất tích cực đối với việc khảo cứu Phật học, triết học, ngôn ngữ học… cũng như phương pháp luận nghiên cứu, giúp nâng tầm nền học thuật nước nhà.
NỘI DUNG
Lời nói đầu
NGÔN NGỮ HỌC
Luận về hai bài kệ đầu của kinh Pháp cú
Karmadhāraya dưới dạng thực danh từ + thực danh từ
Hiện tượng liên thanh (saṃdhi, euphony) trong ngôn ngữ hiện đại thuộc hệ Ấn-Đức
Miscellanea indologica
PHẬT HỌC
Giới thiệu Udānavarga
Udānavarga, Chương I
Định nghĩa Bát-nhã-ba-la-mật-đa
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tán
Giới thiệu Phạn bản của Duy-ma-cật sở thuyết kinh
Vimalakīrtinirdeśa, Chương III
Giới thiệu Kim Quang Minh kinh
Giới thiệu Bodhicaryāvatāra của Śāntideva
TỪ ĐIỂN HỌC
Hướng về một công trình từ điển Phạn–Việt
Lời nói đầu của Böhtlingk cho từ điển PW
Từ đâu ông ta có? Về bản chất của bộ từ điển Phạn–Anh
của Monier-Williams
Đồng nghĩa từ từ điển Nāmaliṅgānuśāsana của Amarasiṃha
NHÂN VẬT
Long Thụ
Thánh Dũng
LUÂN LÍ HỌC PHẬT GIÁO
Ăn thịt và thiên nhiên
CỔ ẤN-ĐỘ HỌC
Giới thiệu Pañcatantra “ngũ quyển”
Ngạn ngữ tục ngữ Ấn-độ I
Ngạn ngữ tục ngữ Ấn-độ II
Dẫn nhập Bhagavadgītā—Chí Tôn ca
Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh
₫130,000
Giới thiệu sách Tố Như và Đoạn Trường Tân Thanh
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên là tác gia lớn của văn học cổ điển Việt Nam. Ông sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH thường được gọi là TRUYỆN KIỀU. Tác phẩm 3254 câu thơ lục bát này đã đi vào đời sống nhân dân cũng như giới quan quyền, trí thức. Trên 200 năm qua, đã được nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, bình luận. UNESCO đã tôn vinh Đại thi hào Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.
Tác phẩm TỐ NHƯ & ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH của GS Trần Ngọc Ninh do Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và NXB Thế giới phối hợp xuất bản nhân dịp kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du (1765-2015).
Tác phẩm này theo GS. TS Mai Quốc Liên, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, “Giáo sư Tiến sĩ Y khoa Trần Ngọc Ninh là một nhà văn hóa nổi tiếng. tuy chuyên ngành của ông là y khoa (phẫu thuật), nhưng ngoài việc hành nghề y, đào tạo các bác sĩ; ông còn dành sự đam mê lớn cho văn hóa. Ông đã nghiên cứu văn học, ngữ học, Thiền học… và đã có nhiều tác phẩm giá trị (…). Ông có học vấn rất rộng, đọc rất nhiều, nghiền ngẫm rất nhiều, từ Đông sang tây… Một người như ông, quả thật là hiếm có.
… Đây là cuốn sách sâu sắc, uyên bác và có nhiều phát hiện có giá trị văn học. cách nhìn của Giáo sư về Truyện Kiều, về Nguyễn Du trong nhiều điểm chững chạc, khoa học. kể cả khi Giáo sư có ý tranh luận với các học giả lớn khác như Hoàng Xuân Hãn, ý kiến của Giáo sư cũng thuyết phục, tin cậy. Đây là một đóng góp vào việc nghiên cứu Truyện Kiều, nghiên cứu Nguyễn Du của chúng ta, của một nhà nghiên cứu lão thành xa xứ”.
Tác giả: Trần Ngọc Ninh. Sinh năm 1923, xuất thân trong ngành Y khoa. Ông đỗ Tiến sĩ Y khoa (Hà Nội năm 1948) rồi Thạc sĩ của Y khoa Đại học Đường Pháp (Paris 1962) và làm Giáo sư Phẫu khoa lâm sàng tại Đại học đường Y khoa Sài Gòn (1962-1977). Ông sáng lập hai phẫu khoa chính trực và tiểu nhi ở Việt Nam như được kể trong sách Một chút lịch sử y khoa Đại học đường Sài Gòn (1954-1975). Hiện ông sống ở Mỹ.
Đồng thời, ông cũng nghiên cứu và hoạt động về văn hóa, giáo dục và văn chương. Ông chủ trương đem phương pháp khoa học và tư tưởng mới để làm sáng tỏ tinh thần văn hóa, cơ cấu ngôn ngữ và cái đẹp của văn chương
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP (Bìa cứng)
₫240,000 ₫192,000
Trong 60 năm tiếp theo, mọi sự phát triển kinh tế-xã hội tại Việt Nam đều chỉ đem lại lợi ích cho người Pháp và một số rất nhỏ người Việt thân Pháp. Mặc dù nhà máy, đường sắt, cảng biển… mọc lên, mang đến công nghiệp hiện đại, nhưng tất cả đều để giúp khai thác và vận chuyển hàng hóa về “mẫu quốc” được thuận lợi hơn.
Người Pháp khai hoang khiến nông nghiệp phát triển vượt bậc đồng thời họ cũng đem đến trình độ và phương thức sản xuất mới trong công nghiệp và dịch vụ. Các ngành tiểu thủ công nghiệp bản địa đang trên đà suy thoái cũng được Pháp hỗ trợ phát triển. Người Pháp xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh bao trùm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam gồm đường bộ, đường sắt, cảng biển, sân bay, các đô thị lớn mà đến ngày nay nền kinh tế Việt Nam vẫn đang vận hành dựa vào hệ thống này.
Kinh Kim Cang Và Bát Nhã Tâm Kinh ( Việt – Hán – Phạn – Anh )
₫97,000 ₫87,000
Đức Phật bảo ngài Tu-Bồ-Đề: “Các vị đại Bồ-tát phải hàng-phục tâm mình như thế này: bao nhiêu những loài chúng-sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có hình-sắc, hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời Ta đều làm cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi vô-dư niết-bàn. Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. Tại sao vậy? Này, Tu-Bồ-Đề! Nếu vị Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, thời chẳng phải là Bồ-tát.
Tu-Bồ-Đề! Lại nữa, vị Bồ-tát, đúng nơi pháp, phải nên không- có-chỗ trụ-trước mà làm việc bố-thí. Nghĩa là không trụ-trước nơi hình sắc mà bố-thí, không trụ-trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà bố-thí.
Này, Tu-Bồ-Đề! Vị Bồ-tát phải nên bố-thí như thế, chẳng trụ-trước nơi tướng. Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ-tát, không trụ-trước nơi tướng mà bố-thí, thời phước-đức nhiều không thể suy lường.
Tự Sự Truyện Kiều Qua 20 Bản Bổ Và Bài Bản Nhạc Tài Tử Miền Nam
₫250,000 ₫175,000
Tổng tập bài ca “Tự sự Truyện Kiều” qua 20 bản tổ & bài bản nhạc tài tử miền Nam này được chuyển thể, phổ nhạc, soạn lời như là một phóng tác bằng một loại hình khác đó là nhạc tài tử miền Nam, trọn vẹn như một tập Truyện Kiều mang hình hài khác so với hình thức truyện thơ ban đầu, hay là tiểu thuyết văn xuôi khác. Cống hiến cho người thưởng thức văn chương, cũng như là giới mộ điệu nhạc tài tử Nam Bộ một cách tiếp cận Truyện Kiều của Nguyễn Du bằng một loại hình nghệ thuật tự sự của nhạc tài tử miền Nam.
Create a Flip Book for any product category. You can also select custom posts.